Trong giai đoạn thai kì, mẹ bầu cần phải thực hiện 7 xét nghiệm quan trọng nhất sau và lí do vì sao thì các mẹ hãy cùng đọc để có câu trả lời cho mình nhé!
1. Làm xét nghiệm trước khi thụ thai – Sàng lọc di truyền
Trước khi bắt đầu mang thai thì phụ nữ làm thử nghiệm di truyền nhưng cũng có thể thực hiện tại những lần khám tiền sản đầu tiên vào khoảng 8 tuần hoặc lâu hơn. Sàng lọc được thực hiện thông qua xét nghiệm nước bọt hoặc máu.
Vì sao cân phải làm sàng lọc di truyền? Bởi đây là xét nghiệm giúp phát hiện xem cha mẹ có mắc rối loạn di truyền nghiêm trọng nào không? Có thể cha mẹ không mắc bệnh nhưng vẫn có thể mang một loại gen bệnh có thể lây truyền cho con của mình.
2. Lần hẹn đầu tiên – Kiểm tra miễn dịch Rubella
Rubella còn có tên gọi khác là bệnh Sởi 3 ngày (vì bệnh phát ban 3 ngày sẽ hết) hay Sởi Đức, là loại bệnh nhiễm trùng gây ra bởi virus nhóm Rubivirus là nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển của thai nhi, có thể làm mẹ sẩy thai, sinh non hoặc thai chết lưu hoặc trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh. Và bệnh sẽ đặc biệt nguy hiểm khi mẹ mang thai trong 13 tuần lễ đầu.
Các dị tật bẩm sinh thường gặp ở trẻ như: tai (điếc), mắt (đục thủy tinh thể), tim mạch, não (tật đầu nhỏ), viêm màng não, gan lách to,… Và độ nghiêm trọng của các loại dị tật này sẽ phụ thuộc vào dộ tuổi thai nhi và nguy cơ trẻ bị dị tật chiếm tới 90% nếu mẹ mắc bệnh trong 3 tháng đầu thai kì.
Vacxin ngừa Rubella được chế tạo từ chính loại virus gây bệnh Rubella sống, làm giảm độc lực. Đó là lí do vì sao mà các thai phụ không nên tiêm ngừa Rubella khi đang mang thai để đảm bảo an toàn nhất cho thai nhi. Với những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản thì nên dùng biện pháp tránh thai trong 3 tháng hoặc ít nhất là 1 tháng sau khi tiêm ngừa. Khi chuẩn bị có thai thì phụ nữ cần kiểm tra tình trạng miễn dịch của bệnh, nếu chưa được miễn dịch thì nên đi chích ngừa và tránh tiếp xúc với người mắc bệnh Rubella. Nếu lỡ tiếp xúc rồi thì nên đi khám bác sĩ đề được chuẩn đoán và xử trí đúng đắn nhất.
3. Kiểm tra CVS – 10 tuần tuổi
CVS là phương pháp lấy mẫu nhung màng đệm. Nếu như lông nhung màng đệm phát triển sớm hơn so với nước ối thì cần kiểm tra mẫu lông nhung màng đệm giúp cung cấp thông tin có giá trị về gene và nhiễm sắc thể trước khi chọc dò ối.
Kiểm tra CVS giúp phát hiện sớm các bất thường ở thai nhi, được chỉ định rất hạn chế cho những trường hợp có nguy cơ thai dị tật cao như người mẹ có tiền sử rối loạn gene, sinh con không bình thường hoặc trên 35 tuổi.
Xét nghiệm này cần làm trong khoảng thời gian đầu thai kì (từ tuần thứ 10 tới tuần thứ 12). CVS được thực hiện dưới sự kiểm soát của siêu âm, trước khi các túi ối hoàn toàn lấp đầy khoang tử cung.
Thiết bị đưa qua cổ tử cung hoặc bụng của người mẹ (như chọc dò ối) để lấy một lượng nhỏ mô lông nhung màng đệm để lấy ra phân tích. Chính vì thế làm CVS đòi hỏi phải có kĩ thuật cao cùng với trang thiết bị hiện đại và dảm bảo an toàn về vệ sinh. Nếu những yêu cầu khắt khe này không được đáp ứng thì thai nhi rất dễ mắc phải các dị tật. Vì thế các mẹ nằm trong nhóm chỉ định cần lựa chọn cơ sở y tế uy tín để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
4. Chọc dò nước ối khi thai được 16 tuần
Là phương pháp để chuẩn đoán giới tính thai nhi, tầm soát Down, một số bệnh di truyền khác,… được thực hiện vào khoảng giữa tuần 16 đến 20 và do nước ối có chứa các tế bào từ da của em bé và các cơ quan trong tử cung của mẹ nên sẽ giúp phát hiện sớm các bất thường nhiễm sắc thể.
Những mẹ bầu trong trường hợp sau đây thì nên xét nghiệm chọc dò nước ối:
- Mẹ 35 tuổi trở lên tính tới thời điểm chuyển dạ (các bất thường nhiễm sắc thể sẽ tăng lên theo độ tuổi của mẹ)
- Mẹ có tiền sử có thai hoặc sinh con khuyết tật.
- Có người trong gia dình bị dị tật bẩm sinh
- Từng có kết quả siêu âm hoặc có xét nghiệm di truyền bất thường từ khi mang thai
Các bác sĩ sẽ dùng một cây kim nhỏ để đâm xuyên qua bụng và rút ra một lượng nước ối nhỏ mà không cần phải gây tê cục bộ. Điều này giúp sàng lọc nguy cơ Down của con dễ dàng nhất so với các phương pháp khác và lại có thể cung cấp nhiều hơn các thông tin về thai nhi.
Nguy cơ sẩy thai khi chọc ối thấp, chỉ hơn 1% mà thôi, tuy nhiên nhờ đó bạn sẽ biết được nhiều thông tin và sẽ quyết định được việc có nên tiếp tục mang thai hay là loại bỏ.
5. Sàng lọc AFP khi thai được 20 tuần
Xét nghiệm này được thực hiện từ tuần 15 tới 20 của thai kì và thường ít khi được tiến hành một mình, mà nó là một trong số bộ ba của xét nghiệm Triple test. Có ba chất được sử dụng trong xét nghiệm này là AFP, hCG và Estriol.
Alpha-fetoprotein (AFP) là một chất của thai nhi và được tìm thấy trong nước ối, máu thai nhi và máu của người mẹ. AFP bất thường có thể chỉ ra một khiếm khuyết về ống thần kinh, thai nhi mắc bệnh hội chứng Down, thiểu ối ở người mẹ hay chỉ ra các biến chứng sau này trong thời kỳ mang thai (chẳng hạn như tăng nguy cơ thai chết lưu).
Khi có kết quả AFP bất thường, thai phụ sẽ được chỉ định làm xét nghiệm trong thai kỳ là chọc dò ối, hoặc sinh thiết gai nhau. Tuy nhiên, để ước tính chính xác mức độ nguy cơ phải kết hợp kết quả xét nghiệm ba chất trên và kết quả AFP cũng bị ảnh hưởng bởi như tuổi của người mẹ, chủng tộc, cân nặng, chiều cao, tiền sử bản thân người mẹ như tiểu đường, hút thuốc, một thai hay song thai, tuổi thai…
6. Kiểm tra Glucose khi thai được 28 tuần
Khi phụ nữ trên 25 tuổi nên được kiểm tra dung nạp glucose và tiểu đường thai kỳ giữa tuần 25 và 28. Trước khi làm xét nghiệm này, thai phụ sẽ uống một loại đồ uống có đường nhưng không có ga. Và sau khi uống 1 tiếng thì sẽ được làm xét nghiệm. Xét nghiệm này không gây nguy hiểm gì cho mẹ và bé và sẽ có kết quả xét nghiệm khoảng 1-2 ngày sau đó
Những mẹ có lượng glucose cao sau các xét nghiệm sàng lọc sẽ được tiến hành thử nghiệm dung nạp Glucose. Có nghĩa là mẫu máu vẫn được gửi tới phòng thí nghiệm và 1-2 ngày sau sẽ biết kết quả. Nếu két quả trả về cho mức độ cao của đường thì các mẹ bầu cần được theo dõi cẩn thận và có chế độ ăn uống và tập luyện cẩn thận để có thể soát mức độ insulin. Trong trường hợp mức độ đường là rất cao thì cần tiêm insulin.
Nếu mẹ không kiểm soát tốt thì thai nhi có thể quá cân, bị tật bẩm sinh hoặc sinh non với các biến chứng nghiêm trọng do áp lực máu.
Thai nhi do người mẹ mắc tiểu đường không được kiểm soát có thể bị quá cân, sinh non, tật bẩm sinh và các biến chứng nghiêm trọng do áp lực máu. Theo Hiệp hội tiểu đường Mỹ, bé sơ sinh nặng cân là khó khăn đối với cả mẹ và bé. Điều này có thể do thai nhi sản xuất thêm insulin từ lượng đường dư trong máu của người mẹ. Các insulin thêm vào được lưu trữ dưới dạng mô mỡ, thông thường ở vai hoặc người bé.
Tiến sĩ Jame Proulx (bác sĩ sản khoa tại bệnh viện William) cho biết: “Hầu hết phụ nữ phát triển bệnh tiểu đường khi mang thai, lượng đường trong máu sẽ quay lại mức bình thường trong vòng vài ngày sau sinh”. Tuy nhiên, có một số phụ nữ vấn phát triển bệnh tiểu đường sau sinh và thai phụ cần được kiểm tra định kỳ cho tình trạng này sau đó.
7. Strep nhóm B – 36 tuần
Đây là xét nghiệm được thực hiện giữa tuần 35 và lần thứ 37 của thai kỳ và đây cũng là xét nghiệm mà Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh (CDC) đề nghị các mẹ bầu nên đi kiểm tra.
Liên cầu nhóm B (GBS) là một loại nhiễm trùng do vi khuẩn có thể được tìm thấy trong âm đạo hoặc trực tràng của người phụ nữ khi mang thai.
Học viện Nhi khoa Mỹ cũng khuyến cáo tất cả phụ nữ có yếu tố nguy cơ trước khi được sàng lọc GBS (ví dụ, phụ nữ sinh non đã bắt đầu trước 37 tuần tuổi thai) cần được điều trị bằng thuốc kháng sinh IV cho đến khi tình trạng GBS của họ được kiểm soát. GBS hiếm khi xảy ra ở phụ nữ mang thai nhưng nếu mắc phải thì kết quả sẽ rất nghiêm trọng. Nên đây là loại xét nghiệm được coi như là 1 phần của thói quen chăm sóc trước sinh.
Theo Afamily